Cuộc đời của một con người có thể nở hoa hay không còn phụ thuộc vào cái tên.
Nguyên tắc chung trong việc đặt tên theo người Việt
Với tâm lý của người Việt Nam, cái tên rất quan trọng vì nó gắn chặt với mỗi con người suốt cuộc đời. Việc đặt tên vì thế không tuân theo một nguyên tắc bất di bất dịch nào đó mà còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố.
Có thể căn cứ vào đặc điểm, giới tính, hoàn cảnh gia đình, họ tộc, xuất xứ, địa vị xã hội và cả ước vọng của người đặt tên để cho ra một cái tên hay nhất. Tên hay đó, trước hết phải hợp với người bao gồm tuổi, mệnh, con giáp và các yếu tố phong thủy khác.
Tên người Việt Nam gồm có 3 phần chính: Họ + Tên Đệm + Tên Chính.
Trong kho ngôn ngữ Việt, chọn lọc kỹ lưỡng về mặt ngữ âm và ngữ nghĩa. Điểm đặc biệt trong cách gọi của người Việt là không xưng họ, chỉ xưng tên. Xưng một tên chính và ít xưng cùng lúc tên lót lẫn tên chính.
Thời điểm đặt tên con
Thời điểm này thông thường tính từ ngày sinh nhưng có sự khác biệt theo vùng miền.
Theo phong tục xưa, không đặt tên ngay khi đứa trẻ mới chào đời.
Người Kinh, theo phong tục xưa thì không đặt tên ngay khi đứa trẻ mới chào đời mà chỉ gọi nôm na như thằng cu, cái đĩ, thằng Tèo, cái Tộp,... hoặc một cái tên gì đó xấu xí trong vòng 100 ngày để ma quỷ khỏi bắt nó đi.
Ở Huế nói riêng, đúng 100 ngày sau sinh, khi làm lễ tạ ơn "mười hai bà mụ" bấy giờ mới đặt tên húy. Tên húy là tên chính thức, tên thật, tên khai sinh của mỗi người, thường do cha mẹ đặt.
Một số địa phương khác, trong dịp tế tổ, các gia đình có con cháu mới sinh sắm sửa cơi trầu, chai rượu, hương hoa, lễ vật đến nhà thờ họ yết cáo tiên tổ. Trước lễ yết cáo, các con trai được vào sổ họ và từ đó mới có tên húy chính thức, được họ hàng công nhận. Trong khi vào sổ họ phải đối chiếu gia phả để xem có trùng tên các vị tiên tổ hoặc ông bà chú bác trong nội thân hay không. Nếu có tức là phạm húy thì phải đổi tên.
Ở nông thôn, các vị có uy vọng trong làng, trong họ thường được dân chúng biếu trầu rượu và nhờ đặt tên cho con. Người đặt tên được gia đình đó nhớ ơn suốt đời.
Ngày nay, theo nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 của Chính phủ Việt Nam về đăng ký và quản lý hộ tịch, trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày sinh con; cha, mẹ có trách nhiệm đi khai sinh cho con; nếu cha mẹ không thể đi khai sinh thì ông bà hoặc những người thân thích khác đi khai sinh cho trẻ, sau 60 ngày sẽ bị phạt.
Những cái tên không nên đặt
Cứ đặt tên sao cho kêu kêu là được theo tiêu chí trên, ngoài ra tránh đặt tên đơn (dễ bị trùng tên) là được, miễn là tránh những cái tên theo dạng sau:
1. Tên trùng tên tiền nhân
Phương Đông thì bố mẹ kiêng không được đặt tên con trùng tên tổ tiên. Trong lịch sử, việc phạm húy tên của vua và hoàng tộc còn bị coi là trọng tội.
Phương Tây truyền thống thì tránh đặt tên theo những bậc lớn tuổi đã qua đời, đặc biệt với những người có bi kịch số phận.
2. Tên khó phân biệt nam nữ
. Ví dụ: con gái tên Minh Thắng, con trai tên Thái Tài, Xuân Thủy…
3. Tên theo thời cuộc chính trị, mang màu sắc chính trị
4. Tên cầu lợi, quá tuyệt đối, quá cực đoan hoặc quá nông cạn
. Chẳng hạn những từ cầu lợi như Kim Ngân, Phát Tài… làm cho người khác có cảm giác đó là sự nghèo nàn về học vấn.
- Không nên đặt tên tuyệt đối quá (như Trạng Nguyên, Diễm Lệ, Cao Sang…) sẽ tạo thành gánh nặng cả đời cho con.
- Không nên đặt tên cuồng tín, nông cạn quá, hoặc tuyệt đối hóa. Ví dụ: Vô Địch, Vĩnh Phát… sẽ làm cho người khác không có ấn tượng tốt.
5. Tên theo dạng cảm xúc
Có những cái tên lấy theo cảm xúc gây dở khóc dở cười cho người khác.
Vd: Đặt tên là Vui thì khi chết, họ hàng hang hốc sẽ khóc vật vã mà la to: “Vui ơi là Vui!”
6. Tên dễ đặt nickname bậy
7. Tên có nghĩa tốt ở tiếng nước ngoài
nhưng vận âm theo tiếng Việt lại là nghĩa xấu, làm cớ cho người đời chọc ghẹo. Ví dụ: Alexander bị đọc trại thành Anh Liết Xong Đơ...
Yeutre.vn